Lịch sử Người_Mỹ_gốc_Phi

Thời kỳ nô lệ

Người da đen ở Mỹ là một cộng đồng cấu thành từ nhiều nhóm chủng tộc khác nhau. Có hơn 40 nhóm chủng tộc đến từ ít nhất 25 vương quốc ở Phi châu bị đem bán đến vùng đất mới Bắc Mỹ thuộc Anh (về sau là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ) trong thời kỳ buôn nô lệ qua Đại Tây Dương. Các vương quốc Phi châu hùng cường dọc bờ biển thường bán những nhóm người này cho các thương buôn người Âu để đổi lấy các loại hàng hoá như hàng dệt và vũ khí.

Ít khi xảy ra tình trạng người Phi bị người Âu bắt cóc, bởi vì người Âu không thể thâm nhập sâu vào nội địa. Những hiểm hoạ bệnh tật chết người luôn hiện hữu và các vương quốc hùng mạnh và hiếu chiến thường kiểm soát vùng duyên hải.

Abraham Lincoln.

Người Phi bị bán và trao đổi như những nô lệ và bị đem lên tàu vượt biển sang Hoa Kỳ đến từ tám khu vực buôn nô lệ ở Phi châu, bao gồm Senegambia (nay là Sénégal, Gambia, GuinéeGuiné-Bissau), Sierra Leone (bao gồm vùng đất ngày nay thuộc Liberia), Windward Coast (nay là Côte d'Ivoire), Gold Coast (nay là Ghana và vùng phụ cận), Bight of Benin (nay là Togo, Bénin và Tây Nigeria), Bight of Biafra (Nigeria phía nam sông Benue, CameroonGuinea Xích đạo), Trung Phi (Gabon, Angola, Cộng hoà Dân chủ Congo) và MozambiqueMadagascar.

Những người nô lệ Phi châu đã mang theo họ tín ngưỡng, ngôn ngữ và văn hoá khi bị cưỡng bức lên tàu đến Tân Thế giới, tuy nhiên, những thương buôn và chủ nô đẩy mạnh những chiến dịch tàn bạo và có hệ thống nhằm tước bỏ bản sắc châu Phi, dần dần tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn tên, ngôn ngữ và tín ngưỡng nguyên thuỷ của họ. Khi có thêm các phương tiện nô dịch, giới chủ nô cố ý sắp xếp nô lệ nói các ngôn ngữ khác nhau sống chung tại các nông trang và cấm họ sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Anh cũng như cấm họ học đọc học viết. Dần dà, người Phi ở Mỹ hình thành một bản sắc mới tập chú vào các điều kiện tương tác tại vùng đất mới đối nghịch với những ràng buộc lịch sử và văn hoá với châu Phi.

Khoảng năm 1860, có 3,5 triệu người nô lệ bị đem vào miền Nam Hoa Kỳ, cùng với 500.000 người Phi đang sống tự do ở khắp đất nước. Sở hữu nô lệ là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong chính trị và xã hội Mỹ. Chủ trương bãi bỏ nô lệ có tiến triển và lên đến đỉnh điểm khi Abraham Lincoln đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1860, dẫn đến hành động ly khai của Liên bang miền Bắc, và bùng nổ cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865).

Thời kỳ Tái thiết và sự kỳ thị chủng tộc

Khi nội chiến kết thúc với chiến thắng thuộc về miền Bắc, Hoa Kỳ công nhận các quyền dân sự dành cho người Mỹ gốc Phi. Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ năm 1862 công bố rằng mọi nô lệ thuộc liên bang miền Nam đều được tự do chiếu theo luật pháp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn lại có những ngoại lệ dành cho các nô lệ bị cầm giữ trong những vùng lãnh thổ không ly khai, như thế chẳng có nô lệ nào được giải phóng, bởi vì luật pháp Hoa Kỳ vào thời điểm ấy không có hiệu lực đối với Liên bang miền Nam.

Đến khi Tu chính án thứ Mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1865, tất cả nô lệ mới được tự do, kể cả những người đang sống ở các tiểu bang ly khai. Trong thời kỳ Tái thiết, người Mỹ gốc Phi ở miền Nam giành được quyền bầu cử và nắm giữ các chức vụ công, cũng như hưởng được một số quyền dân sự mà trước đây họ bị khước từ. Thế nhưng, khi Thời kỳ Tái thiết chấm dứt vào năm 1877, giới chủ đất miền Nam áp đặt một thể chế mới nhằm tước bỏ quyền công dân của người da đen và theo đuổi chủ trương phân biệt chủng tộc, từ đó bùng phát làn sóng khủng bố và áp bức, thể hiện qua các hình thức như xử tử bởi đám đông bạo hành mà không cần xét xử (lynching) và bạo hành trong đêm.

Trong Thời kỳ Tiến bộ (1900-1917), người da đen thuộc giai cấp trung lưu có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện điều kiện sống cho đồng bào của họ. Phong trào này phát triển mạnh nhất tại miền Nam trong các trường đại học dành cho người da đen như Đại học Tuskegee hay Đại học Atlanta, các tạp chí dành cho giới học thuật và trong giáo hội Episcopal (Anh giáo). Giống thành phần tiến bộ da trắng, những người tiến bộ da đen bắt tay trợ giúp giai cấp công nhân thông qua các chương trình từ thiện trong khi ủng hộ các thay đổi chính trị nhằm gia tăng vai trò của chính quyền trong nỗ lực kiến tạo sự công bằng trong các lĩnh vực kinh tếxã hội. Nhiều người da đen tiến bộ thuộc giới tinh hoa thường tìm đến những anh em cùng màu da để giúp đỡ, cũng giống như tính cách và hành động của những người da trắng tiến bộ đối xử với di dân đến từ Âu châu.

Mặc dù những thành công của họ trong các nỗ lực nhân đạo, thành phần da đen tiến bộ lại không quan tâm đến các vấn đề như kỳ thị chủng tộc. Thay vào đó, họ quảng bá tinh thần đấu tranh sinh tồn với hi vọng người da đen, nhờ chăm chỉ làm việc và học vấn mà dần dà thăng tiến vị trí xã hội của mình. Trong thực tế, hoàn cảnh của đa số người da đen không được cải thiện bao nhiêu do chính sách phân biệt chủng tộc áp đặt bởi người da trắng, hỗ trợ bởi những cuộc bạo hành có hệ thống.

Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 ở Hoa Kỳ, các luật lệ kỳ thị và các cuộc bạo hành chủng tộc nhắm vào người Mỹ gốc Phi bắt đầu nở rộ. Giới cầm quyền được bầu cử, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng bởi công dân da trắng khởi sự ban hành hoặc đỡ đầu các biện pháp kỳ thị, nhất là ở các tiểu bang Texas, Louisiana, Mississippi, Alabama, Georgia, Florida, Nam Carolina, Bắc Carolina, Virginia, Arkansas, Tennessee, OklahomaKansas. Có bốn đạo luật kỳ thị hoặc cho phép kỳ thị chống lại người Mỹ gốc Phi được tán thành bởi phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ trong vụ án Plessy v. Ferguson năm 1896 – cho phép chính quyền địa phương áp chế hoặc tước bỏ quyền bầu cử tại các tiểu bang miền nam, khước từ các cơ hội kinh tế hoặc các nguồn tài nguyên quốc gia, bao che các hành vi bạo lực cá nhân hay tập thể nhắm vào người da đen. Mặc dù sự kỳ thị hiện hữu trên toàn quốc, hệ thống phân biệt chủng tộc trong các lĩnh vực luật pháp, kinh tế, xã hội và các chuỗi bạo động chống lại người Mỹ gốc Phi ở các tiểu bang miền nam được biết đến nhiều nhất dưới tên Jim Crow.

Làn sóng di dân và Phong trào Dân quyền

Tình trạng khốn cùng của người Mỹ gốc Phi ở miền Nam đã kích hoạt đợt Di dân lớn vào đầu thế kỷ 20, cùng lúc với sự thăng tiến của giới tinh hoa trong thành phần trí thức và hoạt động văn hoá của cộng đồng da đen ở miền Bắc, hình thành phong trào chống chủ trương bạo động và kỳ thị người Mỹ gốc Phi, giống phong trào bãi bỏ chế độ nô lệ trước đó, thu hút nhiều thành phần chủng tộc khác nhau.

Martin Luther King, Jr. đọc bài diễn văn Tôi Có một Giấc mơ tại Cuộc Diễu hành vì Quyền Công dân ở Washington, D.C.

Một trong số những nhóm này, Hiệp hội Quốc gia Thăng tiến cho Người Da màu (NAACP), phát động bởi nhà báo nổi tiếng hay nói thẳng, Ida B. Wells Barnett, tiến hành chiến dịch chống các vụ xử tử bởi đám đông bạo hành (lynching). Trong thập niên 1950, tổ chức này xúc tiến một loạt các thách thức pháp lý có tính toán cẩn thận nhằm xoá bỏ hệ thống kỳ thị Jim Crow, nổi bật nhất là vụ án "Brown chống Sở Giáo dục thành phố Topeka" (Brown v. Board), tiểu bang Kansas khi Tối cao Pháp viện phán quyết chủ trương phân biệt chủng tộc tại các cơ sở giáo dục công lập là vi hiến.

Phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ án Brown v. Board là ngả rẽ quyết định cho Phong trào Dân quyền Mỹ. Đấy là một phần trong chiến lược lâu dài nhằm đánh đổ hệ thống Jim Crow trong giáo dục công lập, bệnh viện, giao thông, nhân dụng và gia cư, giành quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi khi tiếp cận các tiện nghi kể trên cũng như bảo đảm quyền bầu cử của họ.

Từ năm 1954 đến năm 1968, Phong trào Dân quyền nỗ lực nhắm vào mục tiêu bãi bỏ các hành vi kỳ thị chủng tộc ở chỗ riêng tư cũng như tại nơi công cộng đối với người Mỹ gốc Phi, nhất là tại miền nam Hoa Kỳ. Năm 1966 chứng kiến sự xuất hiện của Phong trào Sức mạnh Da đen, kéo dài từ năm 1966 đến 1975, mở rộng các mục tiêu của Phong trào Dân quyền bằng cách thêm vào những đòi hỏi về phẩm cách chủng tộc, độc lập về kinh tế và chính trị, cũng như giải phóng khỏi quyền lực da trắng. Một vài học giả bắt đầu gọi Phong trào Dân quyền là cuộc Tái thiết lần thứ hai.

Phong trào Dân quyền và Phong trào Sức mạnh Da đen là đỉnh cao của những thế hệ bị áp bức và chứng kiến những sự kiện quan trọng trong lịch sử nước Mỹ như vụ sát hại Emmet Till, Rosa Parks và cuộc tẩy chay xe buýt ở Montgomery, Alabama, vụ kỳ thị ở Little Rock, Arkansas, rất nhiều vụ biểu tình ngồi (sit-in), các cuộc tuần hành vì tự do, cuộc Diễu hành đến Washington vì Việc làm và Tự do năm 1963 và các sự kiện khác. Cuộc Diễu hành đến Washington vì Việc làm và Tự do cùng các điều kiện đã giúp hình thành cuộc diễu hành được cho là các nhân tố tạo nên áp lực đối với Tổng thống John F. Kennedy, sau đó là Lyndon B. Johnson, vận động thông qua Đạo luật Dân quyền năm 1964 cấm đoán tất cả hành động kỳ thị tại các tiện nghi công cộng, trong tuyển dụng nhân lực và trong các nghiệp đoàn lao động.

Chiến dịch "Mùa hè Tự do Mississippi" năm 1964 tạo cơ hội cho hàng ngàn thanh niên đầy ắp lý tưởng, da đen và da trắng, điều hành các "trường học tự do" nhằm dạy các kỹ năng đọc viết, lịch sử và công dân giáo dục trong khi những thiện nguyện viên khác vận động người da đen đăng ký bầu cử. Các mùa hè này được ghi dấu bởi những hành động quấy rối, đe dọa và bạo động nhắm vào những người hoạt động cho dân quyền cũng như những gia đình đón tiếp họ. Sự mất tích của ba thanh niên, James Chaney, Andrew Goodman và Michael Schwerner, tại PhiladelphiaMississippi thu hút sự quan tâm của công luận trên toàn quốc. Sáu tuần sau, người ta tìm thấy thi thể bị đánh đập dã man của Chaney, một thanh niên da đen, trong một bãi đầm lầy cùng với thi thể của hai người bạn da trắng, cả hai đều bị bắn chết.

Martin Luther KingMalcolm X

Cơn phẫn nộ của công luận đối với "Mùa hè Mississippi đẫm máu" và sự tàn bạo của những kẻ giết người giúp thúc đẩy việc thông qua Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965. Đạo luật đã đánh đổ những rào cản từng ngăn trở không cho người da đen hưởng quyền bầu phiếu và là một thắng lợi tạo tiền đề cho việc thông qua các đạo luật dân quyền khác trong hơn một thập niên.

Đến lúc này, những người Mỹ gốc Phi vẫn nghi ngờ về tính hiệu quả của chủ trương phản kháng bất bạo động bắt đầu có nhiều ảnh hưởng. Các thủ lĩnh da đen chủ trương bạo động như Malcolm X thuộc tổ chức Dân tộc Hồi giáoEldridge Cleaver thuộc Đảng Báo đen, kêu gọi người da đen tự phòng vệ và sử dụng các biện pháp bạo động nếu cần. Từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, phong trào Báo đen thúc giục người Mỹ gốc Phi hướng về châu Phi để tìm kiếm sự soi dẫn và nhấn mạnh đến tình đoàn kết da đen hơn là tinh thần hoà nhập.

Trong khi Phong trào Dân quyền đạt được đỉnh cao sức mạnh của mình vào thập niên 1960 dưới sự dẫn dắt của những nhà lãnh đạo như Martin Luther King, Jr., Whitney YoungRoy Wilkins, Sr., thì các phát ngôn nhân của tổ chức Dân tộc Hồi giáo như Malcolm X, sau này là Stokeley Carmichael, Đảng Báo đen, và tổ chức Cộng hòa Tân Phi châu kêu gọi người Mỹ gốc Phi theo đuổi chủ nghĩa dân tộc da đen và kiến tạo quyền lực da đen, quảng bá các ý tưởng về thống nhất, đoàn kết châu Phi (đen) và chủ thuyết Liên Phi. Đến cuối thập niên 1960, một số nhà hoạt động dân quyền và các thủ lĩnh chủ trương liên Phi bị ám sát, trong đó có Medgar Evers, Malcolm X, Martin Luther King, Jr. và Fred Hampton. Tuy nhiên, khi ấy người Mỹ gốc Phi đã đạt được những bước tiến căn bản trong lĩnh vực kinh tế và chính trị nhờ những nỗ lực trong thời kỳ đấu tranh cho dân quyền.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Mỹ_gốc_Phi http://ahdictionary.com/word/search.html?q=African... http://armsandthelaw.com/archives/2006/04/don_kate... http://books.google.com/?id=c2XlG4rRK4QC&pg=PA126 http://www.medterms.com/script/main/art.asp?articl... http://www.slate.com/id/2106753/ http://factfinder.census.gov/servlet/QTTable?_bm=y... http://www.census.gov/prod/cen2010/briefs/c2010br-... http://www.cia.gov/cia/publications/factbook/print... http://www.barna.org/FlexPage.aspx?Page=Topic&Topi... http://www.barna.org/FlexPage.aspx?Page=Topic&Topi...